Thứ Tư, 5 tháng 9, 2007

Folklore - Ả hớ hênh ả để đồ ra...

Trong quyển thơ hát nói Xưa và nay do Hoài Yên sưu tập- tuyển chọn có bài “ Đồ nọ tưởng đồ kia” (1) được chép lại như sau:

Thầy đồ là người tài bộ, (2)
Quảy cầm thư,
đến giáo thọ phủ Vĩnh Tường,(3)
Trước nha môn thiết một học đường,
Dạy dăm đứa chi,hồ,giả,dã…
Nhân một ngày thầy đồ nhàn hạ,
Ra trước sân xem ả hái hoa,
Ả hớ hênh , ả để đồ ra…
Đồ nhìn thấy, đồ ngâm nga tức khắc

Phong tiền lạn mạn hoa sinh sắc
Thủy diện vi mang bạng thổ thần (4)

Đồ ngâm rồi đồ đứng tần ngần
Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc
Suốt năm canh đồ nằm khôn nhắp
Cứ mơ màng đồ nọ tưởng đồ kia
Đồ đâu gặp gỡ làm chi…

(1) Bài hát nói này, tác giả là một người con gái. Nguyên quan tri phủ Vĩnh Tường có một cô con gái tuổi vừa cặp kê, hay chử. Khi thầy đồ Hồ Sĩ Tạo còn hàn vi, phải đi dạy học mưu sinh, đã lưu lạc đến phủ Vĩnh Tường.Cám cảnh học trò nghèo, quan Tri phủ đã mời thầy dạy học cho con cháu mình và cho mượn khuôn viên trước phủ đệ để thầy mở lớp dạy học. Đây là bài hát nói của cô làm gửi thầy đồ Tạo khi thầy buộc miệng ngâm 2 câu thơ trêu ghẹo khi cô vén váy bước xuông hồ sen trước nha môn hái sen, hớ hênh để thấy được bên trong….Phụ nữ Bắc bộ khi xưa mặc áo tứ thân, trong mặc yếm, bên dưới thì mặc váy ( trên thì không hề có soutien và dưới thì cũng không có underware như thời bây giờ - nhớ lại chuyện Jane Fonda phản chiến khi thăm miền Bắc thập niên 70 đã mặc áo bà ba sans soutien làm mấy ông cán bộ tiếp bà hết hồn – và so với chuyện mặc váy sans slip của Paris Hilton bây giờ cốt để khoe hàng thì phụ nữ nông thôn Bắc bộ ngày xưa còn bạo hơn nhiều…) Cô gái để chữa thẹn và cũng muốn trêu thầy đồ nên cô đã làm bài hát nói rồi hôm sau sai con hầu gửi thầy.
(2) Tương truyền rằng chính là Cử nhân Hồ Sĩ Tạo ( theo Phi Lạc sang Tàu của Hô Hữu Tường – Đọc bài viết bên dưới để biết thêm thân thế ông này)
(3) Phủ Vĩnh Tường, thuộc tỉnh Vĩnh Yên xưa, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú.
(4) Dịch nghĩa:
Trước làn gió nhẹ, hoa tăng thêm vẻ đẹp…
Trên mặt nuớc không gợn sóng, con trai há miệng thè mép ra….
(*) nguồn từ BBC news
Lời truyền miệng dân gian về Hồ Chí Minh

Một trong những nhà sử học nổi tiếng nhất của Việt Nam, ông Trần Quốc Vượng, đã qua đời, thọ 71 tuổi.Tin từ Việt Nam cho biết giáo sư Trần Quốc Vượng đã nằm viện một tháng nay vì căn bệnh ung thư thực quản.Ông qua đời vào lúc 2h55 sáng nay.Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng 12-8 ở Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
Là tác giả của hàng chục đầu sách và nhiều bài viết, từ nhiều thập niên qua, ông được xem là một trong những nhà khảo cổ học và nghiên cứu sử Việt Nam hàng đầu. Một bài viết liên quan chủ đề lịch sử khi ra đời năm 1993 đã gây ý kiến trái chiều.
Đó là "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)", in trong quyển Trong Cõi (NXB Trăm Hoa, California, 1993). Đây là tập hợp một số tiểu luận của giáo sư Trần Quốc Vượng sau chuyến đi công tác ở Hoa Kỳ.
Chủ đề chính của bài là thông qua những kinh nghiệm hỏi chuyện dân gian, người ta có thể biết những điều mà sách vở không nhắc đến.
Theo tác giả, "Đây là những lời truyền miệng nhân gian, cho nên cùng lắm, chúng chỉ có thể coi là những giai thoại mà, nếu không khó tính lắm, ta cũng có thể gọi là những giai thoại lịch sử."
"Nói theo kiểu Pháp, những điều tôi cố gắng ghi lại một cách trung thực qua công tác điền dã dưới đây là Thật mà không chắc là Thực."
Dưới đây là trích đoạn phần cuối của tiểu luận của Trần Quốc Vượng:
“ ….Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là "lan truyền" (de transfest folklorique) thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa ... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta sợ động chạm đến cụ Hồ. Một cái sợ vô nghĩa (insignifiant) nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn trong cuốn tiểu truyện bằng tiếng Anh "Life and Death in Shanghai “, đã được phiên dịch ra tiếng Việt, ở xã hội "xã hội chủ nghĩa", cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia".
Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng chút ít . Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của họ Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có nuôi "phường hát ả đào".
Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".
Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng.
Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sen "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.
Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày nay) trở thành con trai út.
Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng.
Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.
Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi thơ ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan (1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan ? ), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi đi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về trở lại làng Sen nữa.
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này...
Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa (mystified).
Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ.
Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh Nghệ An - cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội".
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê.
Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý".
Trần Quốc Vượng

Nói thêm về Thầy Trần Quốc Vượng

Trần Quốc Vượng, người ngoài Đảng, là một trong những cây đại thụ của làng sử học Việt Nam đương đại.

Tôi không may mắn được học thầy, nhưng đã đọc thầy nhiều và có dự 2 buổi thuyết trình về chủ đề folklore vào năm 1987 ở Đại Học Tổng Hợp (Văn Khoa cũ - bây giờ là ĐH KHXHNV ) , nội dung trình bày rất uyên bác và hấp dẫn.

Trước khi mất, thầy đã tục huyền với một người vợ rất trẻ khi đã gần 70 tuổi.

Hỡi ơi, hạnh phúc chẳng tày gang..Thây đã ra đi, để lại nhiều công trình nghiên cứu còn dang dở trên con đường riêng ít có người chọn đi.

Hai bảy tháng trời đà mấy chốc..
Trăm năm Ông Phủ Vĩnh Tường ơi !
Hô Xuân Hương

Bài viết nghiên cứu về họ Nguyễn Sinh, trước khi mất không lâu, được ngươi đọc diễn dịch ý một câu tục ngữ của Trung Hoa:Con chim săp chết, Tiếng hót thảm thương, Con người sắp chết, Lời nói hiền lương... Mà lời nói hiền lương xưa nay bao giờ cũng thực thà đáng tin cậy.

Phần đọc thêm:

Tiểu sử :
Trần Quốc Vượng sinh ngày 12 tháng 12, 1934 mất ngày 08 tháng 8 năm 2005 . Ông sinh trưởng tại Kinh Môn, Hải Dương. Năm 1956 ông tốt nghiệp thủ khoa cử nhân Sử – Địa trường Đại học Văn khoa Hà Nội và được giữ làm cán bộ giảng dạy trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1980 ông được phong hàm giáo sư.

Các chức vụ đã đảm nhiệm: chủ nhiệm bộ môn Khảo cổ học, Đại học Tổng hợp Hà Nội; giám đốc Trung tâm nghiên cứu Liên văn hoá-Lịch sử, trưởng bộ môn Văn hoá học, khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội; phó tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn hoá ẩm thực Việt Nam, phó chủ nhiệm Câu lạc bộ Nghề truyền thống Việt Nam, tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội, chủ tịch đầu tiên của Hội Sử học Hà Nội...

Ngày 22 tháng 9, 2003 ông lập gia đình lần thứ hai với người vợ trẻ hơn ông gần 30 tuổi (sinh năm 1963). Người vợ trước của ông đã mất trước đó khá lâu.

Tác phẩm

Ông được cho là đã đưa ra nhiều ý kiến mới và sắc sảo về các diễn tiến lịch sử.

Ông có hơn 30 đầu sách đã xuất bản, bao gồm:

* Sách chuyên khảo:
o 1960, phiên dịch và chú giải Việt sử lược (khoảng thế kỷ 14, đây là bộ sách sử xưa nhất do người Việt viết còn truyền lại)
o 1973, chủ biên bộ Danh nhân Hà Nội (2 tập)
o 1975, đồng tác giả Hà Nội ngàn xưa (cùng Vũ Tuân Sán)
o 1976, đồng tác giả Mùa xuân và phong tục Việt Nam (cùng Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ)
o 1993, Trong cõi (NXB Trăm Hoa, California), tập tiểu luận
o 1995, Theo dòng lịch sử
o 1998, Việt Nam, cái nhìn địa văn hoá
o 2000, Văn hoá Việt Nam – tìm tòi và suy ngẫm (1000 trang, tập hợp 74 bài viết)...
* Sách giáo khoa: Cơ sở khảo cổ học, Cơ sở văn hoá học, Lịch sử Việt Nam...
* Ngoài ra, ông còn viết hàng trăm bài nghiên cứu đăng ở các báo và tạp chí trong và ngoài nước.

Giai thoại về tứ trụ sử học Việt Nam đương đại

Ông được xem là một trong "tứ trụ" ("Lâm, Lê, Tấn, Vượng", tức gồm Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng) của sử học Việt Nam đương đại. Theo lời giải thích của chính ông, đó là chuyện huyền thoại có lẽ hình thành vào cuối thập kỷ 1960, khi cả bốn ông đều nổi tiếng học giỏi. Ra trường vào giữa thập kỷ 1950, ba ông “Lâm, Lê, Vượng” học cùng khoá, còn ông "Tấn" học sau (thủ khoa năm 1957). Sau đó, theo lệnh của khoa, ông và giáo sư Hà Văn Tấn góp sức xây dựng ngành Khảo cổ học của khoa Sử, vì những năm 1954, khi Pháp rút khỏi Việt Nam thì ngành Khảo cổ Việt Nam hầu như chỉ còn là con số 0, không có một nhà khảo cổ học nào. Ông đã lên lớp đầu tiên về Khảo cổ học Việt Nam niên khoá 1959 – 1960, cùng với sự giúp đỡ tư liệu của giáo sư Hà Văn Tấn.

Nguôn :Wikipedia

1 nhận xét:

hsg nguyen nói...

Nói thêm về Thầy Trần Quốc Vượng

Trần Quốc Vượng, người ngoài Đảng, là một trong những cây đại thụ của làng sử học Việt Nam đương đại.

Tôi không may mắn được học thầy, nhưng đã đọc thầy nhiều và có dự 2 buổi thuyết trình về chủ đề folklore vào năm 1987 ở Đại Học Tổng Hợp (Văn Khoa cũ - bây giờ là ĐH KHXHNV ) , nội dung trình bày rất uyên bác và hấp dẫn.

Trước khi mất, thầy đã tục huyền với một người vợ rất trẻ khi đã gần 70 tuổi.

Hỡi ơi, hạnh phúc chẳng tày gang..Thây đã ra đi, để lại nhiều công trình nghiên cứu còn dang dở trên con đường riêng ít có người chọn đi.

Hai bảy tháng trời đà mấy chốc..
Trăm năm Ông Phủ Vĩnh Tường ơi !
Hô Xuân Hương

Bài viết nghiên cứu về họ Nguyễn Sinh, trước khi mất không lâu, được ngươi đọc diễn dịch ý một câu tục ngữ của Trung Hoa:Con chim săp chết, Tiếng hót thảm thương, Con người sắp chết, Lời nói hiền lương... Mà lời nói hiền lương xưa nay bao giờ cũng thực thà đáng tin cậy.

Phần đọc thêm:

Tiểu sử :
Trần Quốc Vượng sinh ngày 12 tháng 12, 1934 mất ngày 08 tháng 8 năm 2005 . Ông sinh trưởng tại Kinh Môn, Hải Dương. Năm 1956 ông tốt nghiệp thủ khoa cử nhân Sử – Địa trường Đại học Văn khoa Hà Nội và được giữ làm cán bộ giảng dạy trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1980 ông được phong hàm giáo sư.

Các chức vụ đã đảm nhiệm: chủ nhiệm bộ môn Khảo cổ học, Đại học Tổng hợp Hà Nội; giám đốc Trung tâm nghiên cứu Liên văn hoá-Lịch sử, trưởng bộ môn Văn hoá học, khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội; phó tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn hoá ẩm thực Việt Nam, phó chủ nhiệm Câu lạc bộ Nghề truyền thống Việt Nam, tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội, chủ tịch đầu tiên của Hội Sử học Hà Nội...

Ngày 22 tháng 9, 2003 ông lập gia đình lần thứ hai với người vợ trẻ hơn ông gần 30 tuổi (sinh năm 1963). Người vợ trước của ông đã mất trước đó khá lâu.

Tác phẩm

Ông được cho là đã đưa ra nhiều ý kiến mới và sắc sảo về các diễn tiến lịch sử.

Ông có hơn 30 đầu sách đã xuất bản, bao gồm:

* Sách chuyên khảo:
o 1960, phiên dịch và chú giải Việt sử lược (khoảng thế kỷ 14, đây là bộ sách sử xưa nhất do người Việt viết còn truyền lại)
o 1973, chủ biên bộ Danh nhân Hà Nội (2 tập)
o 1975, đồng tác giả Hà Nội ngàn xưa (cùng Vũ Tuân Sán)
o 1976, đồng tác giả Mùa xuân và phong tục Việt Nam (cùng Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ)
o 1993, Trong cõi (NXB Trăm Hoa, California), tập tiểu luận
o 1995, Theo dòng lịch sử
o 1998, Việt Nam, cái nhìn địa văn hoá
o 2000, Văn hoá Việt Nam – tìm tòi và suy ngẫm (1000 trang, tập hợp 74 bài viết)...
* Sách giáo khoa: Cơ sở khảo cổ học, Cơ sở văn hoá học, Lịch sử Việt Nam...
* Ngoài ra, ông còn viết hàng trăm bài nghiên cứu đăng ở các báo và tạp chí trong và ngoài nước.

Giai thoại về tứ trụ sử học Việt Nam đương đại

Ông được xem là một trong "tứ trụ" ("Lâm, Lê, Tấn, Vượng", tức gồm Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng) của sử học Việt Nam đương đại. Theo lời giải thích của chính ông, đó là chuyện huyền thoại có lẽ hình thành vào cuối thập kỷ 1960, khi cả bốn ông đều nổi tiếng học giỏi. Ra trường vào giữa thập kỷ 1950, ba ông “Lâm, Lê, Vượng” học cùng khoá, còn ông "Tấn" học sau (thủ khoa năm 1957). Sau đó, theo lệnh của khoa, ông và giáo sư Hà Văn Tấn góp sức xây dựng ngành Khảo cổ học của khoa Sử, vì những năm 1954, khi Pháp rút khỏi Việt Nam thì ngành Khảo cổ Việt Nam hầu như chỉ còn là con số 0, không có một nhà khảo cổ học nào. Ông đã lên lớp đầu tiên về Khảo cổ học Việt Nam niên khoá 1959 – 1960, cùng với sự giúp đỡ tư liệu của giáo sư Hà Văn Tấn.

Nguôn :Wikipedia